2 thg 3, 2016
Trước hết, cần khẳng định ngay, không có quốc gia dân chủ nào lại không có bầu cử. Có thể xem bầu cử là biểu hiện đầu tiên và rõ rệt nhất của dân chủ. Lý do là dân chủ, tự bản chất, là thiết chế tạo điều kiện cho người dân có quyền và có cơ hội thực thi quyền lựa chọn giới lãnh đạo cũng như tác động đến các chính sách quan trọng trong việc đối nội cũng như đối ngoại của quốc gia.
Các cuộc bầu cử được tổ chức thường kỳ nhằm bảo đảm những nhà lãnh đạo phải là những người được sự tín nhiệm của đa số (trên 50%) dân chúng, hơn nữa, đó cũng là cách giới hạn thời gian cầm quyền của họ (trong ba, bốn hoặc năm năm, tuỳ quốc gia).
Tuy nhiên, từ kinh nghiệm cũng như từ lịch sử, chúng ta cũng có thể khẳng định một sự thật khác: Không phải cứ hễ có bầu cử là có dân chủ. Trong một cuộc phỏng vấn trước lúc chính thức nhậm chức vào đầu năm 2009, Tổng thống Barrack Obama nhận định: “Tôi nghĩ thật là lầm lẫn khi đánh đồng dân chủ và các cuộc bầu cử. Bầu cử không phải là dân chủ như cái điều mà chúng ta hiểu.”
Mà không cần phải chờ đến câu tuyên bố của Obama, chỉ cần nhìn lại lịch sử cũng như tình hình chính trị thế giới hiện nay, chúng ta cũng có thể thấy vô số các nhà độc tài được lên cầm quyền từ các cuộc bầu cử. Hitler ở Đức, Ferdinand Marcos ở Philippines là những ví dụ gần gũi nhất. Hiện nay, tại nhiều quốc gia, từ Nga đến Iran, Syria, Zimbabwe, Venezuela cũng như nhiều nước khác ở châu Phi và Nam Mỹ, tuy cũng có bầu cử nhưng, tự bản chất, các nhà lãnh đạo vẫn là những tên độc tài.
Điều kiện đầu tiên để một cuộc bầu cử được xem là dân chủ là nó phải được tiến hành một cách tự do và minh bạch. Khái niệm tự do bao gồm ba khía cạnh: tự do ứng cử; tự do vận động tranh cử; và tự do có những quan điểm và chính sách riêng, khác với nhà cầm quyền. Sự minh bạch cần được thể hiện trong toàn bộ tiến trình bầu cử, đặc biệt trong giai đoạn kiểm phiếu. Để tạo sự tin cậy, hầu hết những quốc gia khởi sự dân chủ hoá đều mời các phái đoàn quốc tế đến chứng kiến và kiểm tra việc bầu cử.
Ở Việt Nam, cho đến nay, việc bầu cử vừa không có tự do vừa không hề minh bạch. Dân chúng khái quát hoá việc bầu cử trong một công thức rất hay: “Đảng cử, dân bầu”. Tất cả các ứng cử viên đều do đảng, thông qua Mặt trận Tổ quốc, một tổ chức ngoại vi của đảng, lựa chọn. Qua các cuộc sàng lọc được gọi là “hiệp thương”, các ứng cử viên độc lập đều bị loại bỏ. Hơn nữa, việc kiểm phiếu hoàn toàn nằm trong tay nhà nước. Những người thắng cử, đặc biệt, những cán bộ cao cấp, bao giờ cũng đạt đến trên 90%, thậm chí, có khi 99% phiếu bầu
Cuối cùng, Quốc hội, với trên 90% là đảng viên, chỉ là một chi bộ được mở rộng, ở đó, người ta phải chấp hành nguyên tắc “tập trung dân chủ”, nghĩa là nhất nhất đều theo chỉ thị của cấp trên (được hiểu là Ban Chấp hành Trung ương). Chính vì thế, ở Việt Nam, hầu như không bao giờ Quốc hội có một tiếng nói ngược lại các chỉ thị của Bộ Chính trị. Đó không phải là dân chủ.
Cũng cần lưu ý là, ở Việt Nam, người dân chỉ được phép bầu cử Quốc hội, nhưng cơ quan có thực quyền cao nhất trong sinh hoạt chính trị cả nước là Ban Chấp hành Trung ương và Bộ Chính trị thì lại chỉ được các đại biểu đảng viên bầu lên. Dân chúng hoàn toàn là những người ngoại cuộc. Đó càng không phải là dân chủ.
Điều kiện thứ hai để có một cuộc bầu cử dân chủ là nó phải có một nền tảng pháp quyền vững chắc. Trong chính trị học Tây phương, người ta phân biệt hai khái niệm pháp quyền (rule of law) và pháp trị (rule by law)
Không có nhận xét nào:
Đăng nhận xét